Viêm da tiết bã là một bệnh mạn tính, xảy ra ở 1 – 3% dân số, với biểu hiện đặc trưng mảng hồng ban, nhờn, tróc vảy vàng ở da dầu, mặt, ngực và các vùng có nếp gấp. Các loài Malassezia là nguyên nhân chính gây bệnh. Hiện nay, bệnh được điều trị bằng các thuốc kháng nấm, kháng viêm (steroids, ức chế calcineurin, và muối lithium), chất tiêu sừng và quang liệu pháp.Điều trị viêm da tiết bã bằng corticosteroid dài ngày có thể gây teo da, giãn mạch, bệnh trứng cá và trứng cá đỏ.
Sản phẩm C/P
Cream (Sensibio DS+®; Bioderma Laboratoire Dermatologique, Lyon,
France) là mỹ phẩm chứa piroctone olamine và climbazole. Dầu gội chứa
piroctone olamine và climbazole giảm gàu hiệu quả. Tuy nhiên, không có
nghiên cứu chuyên sâu nào về một sản phẩm OTC chứa piroctone olamine và
climbazole trong điều trị viêm da tiết bã ở mặt. Do đó, nghiên cứu này
nhằm đánh giá tính hiệu quả và độ an toàn của kem C/P trong điều
trị viêm da tiết bã ở mặt.
Một nghiên
cứu nhãn mở, đơn trung tâm, kéo dài 4 tuần đã được phê duyệt bởi Hội
đồng đánh giá của trung tâm Y tế Đại học Konkuk (Hàn Quốc) (IRB số
KUH1120054). Tất cả người tham
gia nghiên cứu đã ký vào mẫu chấp thuận. Người tham gia là 24 bệnh nhân được
bác sĩ da liễu chẩn đoán mắc bệnh viêm da tiết bã ở mức độ nhẹ đến trung bình
dạng đối xứng trên mặt.
Tiêu chí loại trừ bao gồm:
·
Đã
sử dụng thuốc ảnh hưởng tình trạng da trong vòng 4 tuần như steroid, kháng nấm,
kháng sinh, histamine,...
·
Điều
trị bằng chế phẩm bôi trong vòng 2 tuần từ khi tham gia nghiên cứu.
·
Người
mắc bệnh ngoài da không phải viêm da tiết bã hoặc đã điều trị vùng mặt trong
vòng 6 tháng.
Các bệnh nhân bôi kem C/P ở mặt bên phải và kem
dưỡng ẩm (Atoderm®; Bioderma Laboratoire Dermatologique), không chứa
climbazole và piroctone olamine, ở mặt bên trái mỗi sáng và tối trong 4 tuần.
Bệnh nhân bị cấm sử dụng mỹ phẩm, các chế phẩm điều trị cả dạng đường uống và
đường bôi có thể ảnh hưởng đến kết quả thử nghiệm. Tại lần khám đầu và 4 tuần sau, (1) máy
Sebumeter® và Mexameter® (Courage & Khazaka Electronic GmbH, Cologne, Đức)
được sử dụng để đo lượng bã nhờn và mức độ ban đỏ nặng nhất ở trán và hai
bên má; và (2) bệnh nhân được yêu cầu chấm điểm một cách chủ quan mức độ ngứa,
cảm giác nóng rát, ban đỏ, đóng vảy và căng da ở mỗi bên mặt. Nghiên cứu này được
thực hiện vào mùa đông từ tháng 11 đến tháng 12.
Độ an toàn được đánh giá thông qua dấu hiệu kích ứng
da tại chỗ hoặc các tác dụng phụ khác bằng cách sử dụng bảng câu hỏi. Hoạt tính
kháng nấm của kem C/P và kem làm mềm đối với các loài Malassezia nhất định được xác định bằng cách đo nồng độ ức chế tối
thiểu (MIC) trong phòng thí nghiệm. MIC là nồng độ thấp nhất của chất kháng
nấm hoặc kháng sinh mà ức chế rõ sự phát triển của vi sinh vật sau khi ủ qua
đêm.
Kết quả
Độ tuổi trung bình của các bệnh nhân là 35,37.
Nghiên cứu được thực hiện trên 24 bệnh nhân người Hàn (gồm 6 nam và 18
nữ). Không ai rút khỏi nghiên cứu.
Lượng bã nhờn và sự lan rộng của ban đỏ trên
trán trái-phải và má được đo bằng máy Sebumeter ® và Maxameter ® và
được so sánh vào ngày đầu và 4 tuần sau đó. Tại tuần 4, vùng điều
trị bằng kem C/P cho thấy giảm có ý nghĩa thống kê đáng kể lượng bã
nhờn trên trán so với kem giữ ẩm. Ở trên má, vùng điều trị kem C/P
cũng giảm thấp lượng bã nhờn so với kem giữ ẩm nhưng không có ý
nghĩa thống kê. Tại tuần 4, vùng da dùng C/P giảm mức độ đỏ da đáng
kể so với kem giữ ẩm cả ở trên trán và má.
Bộ câu hỏi được thực hiện vào ngày đầu và sau
4 tuần để xác định sự khác biệt về triệu chứng giữa mặt trái và
mặt phải. Triệu chứng ngứa, nóng rát và mẩn đỏ giảm trên cả 2 vùng
điều trị bằng kem C/P và kem giữ ẩm, điều này cho thấy triệu chứng
chủ quan của bệnh nhân tăng trong cả 2 dạng kem; không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa 2 kem này.
Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào trong
suốt thử nghiệm được báo cáo mặc dù 2 bệnh nhân cho biết có cảm
giác châm chích tạm thời sau khi dùng kem C/P.
Thảo luận
Mặc dù cơ chế bệnh sinh viêm da tiết bã vẫn chưa thực
sự được hiểu rõ, nhưng đã thấy sự liên quan giữa mật độ Malassezia với mức độ
nghiêm trọng của
bệnh. Do đó người ta cho rằng việc kiểm soát sự phát triển của Malassezia có thể
giúp cải thiện tình trạng bệnh viêm da tiết bã.
Climbazole là thuốc kháng nấm nhóm imidazole,
thường dùng trị gàu và viêm da tiết bã, với tác dụng ức chế thành phần
quan trọng của màng tế bào nấm - ergosterol. Trong khi đó piroctone olamine là một dẫn
xuất pyridine, có trong thành phần của nhiều mỹ phẩm như dầu gội trị
gàu nhờ vào tác dụng kháng nấm, ức chế chuyển hóa năng lượng ở ty thể.
Ưu điểm của kem C/P là có thể mua mà không cần bác sĩ
kê đơn, có thể thay thế kem dưỡng da hàng ngày sau khi rửa mặt và có thể giảm
nhẹ các triệu chứng của viêm da tiết bã mà không có tác dụng phụ nghiêm trọng
nào cần điều trị y tế. Nhược điểm là tác dụng dưỡng ẩm không đủ để chống
khô da vào mùa đông.
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Đây là một nghiên cứu
mở nhãn đơn giản, có một trung tâm. Số lượng bệnh nhân ít (n=24). Hiệu quả lâu
dài của thử nghiệm này chưa được đánh giá. Do đó, cần bổ sung dữ liệu lâm sàng
để xác định hiệu quả và độ an toàn lâu dài của kem C/P.
Kết luận
Tóm lại, dựa vào việc giảm mức độ bã nhờn, mức độ ban
đỏ, kem C/P (chứa climbazole và piroctone
olamine) có hoạt tính chống lại các loài Malassezia
hữu ích trong việc điều trị viêm da tiết bã ở mức độ từ nhẹ đến trung bình. Và sự cải
thiện khách quan về viêm da tiết bã có liên quan đến hoạt tính chống Malassezia của kem C/P.